Yuval Noah Harari: ‘Liệu vi-rút Corona có thay đổi thái độ của chúng ta về cái chết? Thật ra là ngược lại’
Lời người dịch: Giáo sư Yuval Noah Harari sinh năm 1976 tại Israel. Ông chuyên nghiên cứu về lịch sử thế giới, lịch sử thời Trung cổ và lịch sử quân sự. Ông là tác giả của các cuốn sách bán chạy thế giới Sapiens: Lược sử loài người (2014), Homo Deus: Lược sử tương lai (2016) và 21 bài học cho thế kỷ 21 (2018). Bài viết của ông xoay quanh ý chí tự do, ý thức và trí thông minh và hạnh phúc.
Bản tiếng Anh đăng tải trên The Guardian hồi 20/04/2020 và được lược dịch bởi nhóm Cây Rừng ‘Mylu – Hoàng Minh – Hoàng Dung – QQ’
Liệu đại dịch Corona có đưa chúng ta trở lại với thái độ truyền thống dễ chấp nhận hơn trước cái chết hay chỉ khiến loài người củng cố thêm nỗ lực kéo dài sự sống?
Thế giới hiện đại được định hình bởi niềm tin cho rằng con người có thể vượt lên và chiến thắng cái chết. Đó là một quan điểm mang tính cách mạng, vì gần như trong suốt chiều dài lịch sử của mình, con người đã ngoan ngoãn chấp nhận nó. Cho đến cuối thời hiện đại, hầu hết các tôn giáo và hệ tư tưởng xem cái chết không chỉ là điều tất yếu của số phận mà còn là cội nguồn của ý nghĩa sự sống. Những điều quan trọng nhất trong sự tồn tại của con người xảy ra sau khi chúng ta trút hơi thở cuối cùng. Chỉ sau đó bạn mới có thể nhận ra những chân lí bí ẩn của cuộc đời. Chỉ sau đó bạn mới có thể đón lấy sự cứu rỗi vĩnh hằng hoặc hứng chịu sự nguyền rủa đời đời. Trong một thế giới mà cái chết không tồn tại, đồng nghĩa với việc không có thiên đường, địa ngục hay tái sinh, thì các tôn giáo như Kitô Giáo, Hồi Giáo và Ấn Độ Giáo sẽ trở nên vô nghĩa. Gần như trong suốt chiều dài lịch sử, những người thông tuệ nhất không cố gắng chống lại chết, ngược lại họ nỗ lực tìm ra ý nghĩa cho nó.
Sử thi Gilgamesh, huyền thoại Orpheus và Eurydice, Kinh Thánh, Kinh Qur’an, Kinh Vệ Đà và vô số kinh sách, câu chuyện linh thiêng khác đã kiên nhẫn giải thích cho nhân loại khốn khổ rằng chết là mệnh lệnh của Chúa trời, của Vũ trụ hay Mẹ Thiên nhiên và tốt hơn hết là con người nên chấp nhận số phận bằng sự khiêm nhường lẫn biết ơn. Có thể một ngày nào đó sắc lệnh này được Chúa Trời bãi bỏ thông qua một cử chỉ siêu hình vĩ đại như việc Chúa Kitô tái lâm chẳng hạn. Tuy nhiên việc cho phép những thảm họa xảy ra như vầy rõ ràng đã vượt quá khả năng của con người bằng xương bằng thịt.
Cuộc cách mạng khoa học đã đến sau đó. Với các nhà khoa học, cái chết không phải là thánh lệnh thần thánh nào cả, mà chỉ đơn giản là vấn đề về mặt kĩ thuật. Con người chết không vì Chúa bảo phải thế, mà do một số hỏng hóc kỹ thuật mà thôi. Trái tim ngừng bơm máu. Ung thư tàn phá gan. Vi-rút thì sinh sôi nảy nở trong phổi. Và điều gì chịu trách nhiệm cho những vấn đề trên? Chính là các vấn đề kĩ thuật khác. Trái tim ngừng đập vì không có đủ ôxy cung cấp cho cơ tim hoạt động. Các tế bào ung thư lan rộng trong gan vì một số sự đột biến gen ngẫu nhiên. Và vi-rút xuất hiện trong phổi nếu có ai đó hắt xì trên xe buýt. Hoàn toàn không có vấn đề siêu hình nào ở đây hết.
Khoa học tin rằng vấn đề nào cũng có cách giải quyết. Chúng ta không cần chờ đợi Chúa giáng thế lần nữa để có thể vượt qua cái chết. Một vài nhà khoa học trong phòng thí nghiệm có thể làm điều đó. Mặc dù cái chết trong quá khứ là vấn đề chuyên môn của các thầy tu và các nhà thần học áo choàng đen, thì giờ đây đó là câu chuyện của các nhà nghiên cứu. Nếu trái tim đập yếu đi, chúng ta có thể giữ nhịp trở lại với máy điều hòa nhịp tim hoặc thậm chí cấy hẳn một quả tim mới. Với các tế bào ung thư, chúng ta có thể tiêu diệt chúng bằng xạ trị. Và nếu vi-rút hoành hành trong phổi, chúng ta sẽ đánh bại chúng bằng một vài phương thuốc mới.
Đúng là hiện nay, chúng ta không thể giải quyết hết các vấn đề kỹ thuật của loài người. Nhưng chúng ta vẫn đang cố gắng. Thay vì tìm hiểu cái chết, những bộ óc ưu việt của loài người đang bận rộn với việc kéo dài sự sống. Họ đang nghiên cứu các hệ thống vi trùng học, sinh lý học và gen gây ra bệnh tật và sự lão hóa, từ đó phát triển ra các phương thuốc mới và các cách điều trị tiên tiến hơn nữa.
*****
Trong cuộc đấu tranh kéo dài sự sống, loài người đã có những thành công đáng kể. Trong hai thế kỷ qua, tuổi thọ trung bình thế giới đã tăng từ dưới 40 đến 72 tuổi và đạt ngưỡng 80 ở một số nước phát triển. Đặc biệt số lượng thai chết lưu đã giảm đáng kể. Mãi tận đến thế kỷ 20, con số cho thấy ít nhất ⅓ trẻ em chết trước tuổi trưởng thành. Trẻ từ 10 đến 16 tuổi thường không chống chọi được với các căn bệnh như kiết lị, sởi và đậu mùa. Vào thế kỷ 17 ở Anh, khoảng 150 trong số 1,000 trẻ sơ sinh chết trong năm đầu sau sinh, chỉ 700 trẻ sống đến 15 tuổi. Ngày nay thì chỉ 5 trong số 1,000 trẻ sơ sinh ở Anh chết trong năm đầu sau sinh và có đến 993 trẻ có thể ăn mừng sinh nhật thứ 15 của mình. Xét về tổng thể, tỷ lệ tử vong ở trẻ em giảm xuống dưới 5%.
Con người đã rất thành công trong nỗ lực bảo vệ và kéo dài sự sống đến nỗi thế giới quan của chúng ta đã thay đổi một cách sâu sắc. Trong khi các tôn giáo truyền thống xem thế giới bên kia là nguồn ý nghĩa chính, thì các hệ tư tưởng từ thế kỷ 18 như chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa xã hội và nữ quyền đã không còn hứng thú về khái niệm sự sống sau cái chết nữa. Chính xác thì điều gì xảy ra với một người cộng sản khi anh ta/cô ta chết? Tương tự điều gì xảy ra với một nhà tư bản hay nữ quyền? Thật vô nghĩa khi tìm Chẳng thể tìm đâu được câu trả lời trong các học thuyết của Karl Marx, Adam Smith hay Simone de Beauvoir.
Hệ tư tưởng hiện đại duy nhất vẫn trao cho cái chết vai trò trọng yếu là chủ nghĩa dân tộc. Trong những thời khắc thơ mộng và tuyệt vọng, chủ nghĩa dân tộc hứa hẹn rằng bất kỳ ai hy sinh vì quốc gia sẽ sống mãi trong ký ức dân chúng. Tuy nhiên, lời hứa hẹn này quá mờ nhạt đến nỗi những người theo chủ nghĩa dân tộc thật sự không biết làm gì với nó. Thật sự thì “sống” trong ký ức là thế nào? Nếu bạn chết, làm thế nào bạn biết liệu người ta có nhớ về bạn không? Woody Allen một lần được hỏi liệu ông có muốn sống mãi trong ký ức của người xem phim không. Allen đã đáp lại rằng: “Tôi thà sống trong căn hộ của mình thì hơn.” Thậm chí nhiều tôn giáo truyền thống đã chuyển trọng tâm. Thay vì hứa hẹn một thiên đường ở thế giới bên kia, các tôn giáo đã bắt đầu chú trọng hơn nhiều về những gì chúng có thể mang lại cho cuộc sống của bạn.
“Hệ tư tưởng hiện đại duy nhất vẫn trao cho cái chết vai trò trọng yếu là chủ nghĩa dân tộc.”
Liệu dịch bệnh hiện nay có làm thay đổi thái độ của loài người về cái chết? Có lẽ là không. Thật ra là ngược lại. Covid-19 có lẽ sẽ khiến cho loài người nỗ lực gấp đôi để bảo vệ sự sống của mình. Phản ứng chủ yếu của chúng ta đối với covid-19 sẽ không phải là buông xuôi chấp nhận – mà đó là pha trộn của giận dữ và hy vọng.
Khi một dịch bệnh bùng phát ở xã hội tiền hiện đại ví dụ như thời Trung cổ ở châu Âu, đương nhiên mọi người đều lo sợ cho cuộc sống của mình và cảm thấy suy sụp trước cái chết của những người thân yêu, nhưng phản ứng phổ biến nhất là sự buông xuôi chấp nhận. Các nhà tâm lý học gọi điều đó là “sự bất lực có điều kiện”* . Mọi người tự nhủ rằng đó là ý trời – hoặc có lẽ đó là quả báo cho những tội lỗi của loài người. “Chúa biết rõ mọi điều. Loài người hung ác đáng bị như thế. Và rồi bạn sẽ thấy, cuối cùng tất cả đều sẽ tốt đẹp. Bạn đừng lo, người tốt sẽ có được phần thưởng trên thiên đàng. Và đừng lãng phí thời gian kiếm tìm thuốc chữa trị. Chúa đã tạo ra căn bệnh này để trừng phạt chúng ta. Những ai cho rằng loài người có thể vượt qua dịch bệnh này bằng sự khôn khéo thì cũng là đang tạo thêm tội lỗi ngạo mạn cho chính mình. Chúng ta là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa?
Các quan điểm ngày nay thì lại hoàn toàn khác. Khi xảy ra thảm họa giết chết nhiều người – ví dụ như tai nạn tàu hoả, hay đám cháy nhà cao tầng, thậm chí một cơn bão xoáy – chúng ta có xu hướng xem đó là một sự thất bại có thể tránh được hơn là một sự quả báo hay thiên tai không thể tránh khỏi. Nếu công ty tàu hoả không giảm bớt ngân sách an toàn, nếu thành phố đưa ra các quy định phòng cháy chữa cháy tốt hơn, và nếu chính phủ cử người hỗ trợ nhanh hơn – những người này có lẽ đã được cứu. Trong thế kỷ 21, những vụ chết người hàng loạt đã tự động trở thành những nguyên nhân cho các vụ kiện và điều tra.
Đây chính là quan điểm của chúng ta về dịch bệnh. Trong khi những nhà thuyết giáo trước đây dễ dàng cho rằng AIDS chính là sự trừng phạt của chúa dành cho người đồng tính nam, thì xã hội hiện đại đã từ bỏ quan điểm này vì sự cực đoan của nó, và nhìn chung ngày nay chúng ta xem sự bùng phát của AIDS, Ebola và những dịch bệnh gần đây là một sự thất bại có tính tổ chức. Chúng ta giả định rằng loài người có đủ kiến thức và công cụ cần thiết để kiềm chế những bệnh dịch như vậy, và nếu một căn bệnh truyền nhiễm vượt ngoài tầm kiểm soát thì nó là do sự yếu kém của con người hơn là do sự tức giận của thần linh. Covid-19 cũng không phải là ngoại lệ. Cuộc khủng hoảng vẫn còn kéo dài chưa kết thúc, nhưng những trò đổ lỗi đã bắt đầu xuất hiện. Các quốc gia buộc tội lẫn nhau. Các chính trị gia đối lập ném trách nhiệm từ người này sang người khác cứ như một quả lựu đạn không có chốt.
Bên cạnh sự phẫn nộ, cũng có rất nhiều hy vọng. Người hùng của chúng ta không phải là những linh mục chôn cất người chết và bào chữa cho những thảm hoạ – anh hùng của chúng ta là những nhân viên y tế cứu người. Và siêu anh hùng là những nhà khoa học ở phòng thí nghiệm. Những người mê phim đều biết là cuối cùng Spiderman và Wonder Woman sẽ đánh bại kẻ xấu và cứu thế giới, vì vậy chúng ta khá chắc chắn trong vài tháng tới, hoặc có lẽ là một năm, những người trong phòng thí nghiệm sẽ đưa ra liệu pháp điều trị hiệu quả cho Covid-19 và thậm chí là tạo ra được vắc-xin. Rồi sau đó chúng ta sẽ cho con vi-rút corona dơ bẩn này thấy ai mới là sinh vật đứng đầu trên hành tinh này. Điều mà ai ai ở Nhà trắng cho tới người Phố Wall và tất thảy những người trên các ban công ở Ý cũng đều bàn luận chính là “Khi nào thì vắc-xin sẽ sẵn sàng?”. Đúng rồi, là “Khi nào”. Không phải là “Nếu”.
*****
Đến khi vắc-xin đã sẵn sàng và đại dịch bệnh đã qua đi, loài người sẽ rút ra được điều gì? Rất có khả năng chúng ta sẽ đầu tư nhiều nỗ lực hơn vào việc bảo vệ sự sống loài người. Chúng ta cần có nhiều bệnh viện hơn, nhiều bác sỹ hơn, nhiều y tá hơn. Chúng ta cần dự trữ nhiều máy thở hơn, nhiều đồ bảo hộ hơn, nhiều bộ dụng cụ kiểm tra hơn. Chúng ta cần đầu tư nhiều tiền hơn vào việc nghiên cứu các mầm bệnh mà chúng ta chưa biết tới và các phương pháp điều trị mới.
“Cuộc khủng hoảng còn lâu mới kết thúc nhưng cuộc chơi đổ lỗi đã bắt đầu. Các chính trị gia thì đùn đẩy trách nhiệm từ người này sang người khác”
Một số người có thể lập luận rằng đây là một sai lầm, và cuộc khủng hoảng này sẽ dạy chúng ta biết nhún nhường. Chúng ta không nên quá chắc chắn về khả năng khuất phục thế lực tự nhiên của mình. Phần nhiều trong số những kẻ chối từ là người bảo thủ, những người thuyết giáo về sự khiêm nhường trong khi lúc nào cũng khăng khăng mình luôn đúng. Một số người cố chấp mù quáng không thể tự cứu rỗi mình – một mục sư chủ trì các buổi đọc Kinh thánh hằng tuần cho nội các Donald Trump đã kết luận rằng dịch bệnh này chính là sự trừng phạt thiêng liêng mà Chúa dành cho những người có xu hướng tình dục đồng giới. Nhưng ngày nay, hầu hết những người mẫu mực của nhiều truyền thống khác nhau đều đặt niềm tin vào khoa học hơn là kinh sách.
Thiên chúa giáo đã hướng dẫn tín đồ tránh xa các nhà thờ. Israel đã đóng cửa các giáo đường Do Thái. Cộng hòa Hồi giáo Iran đang ngăn cản người dân đến thăm nhà thờ Hồi giáo. Đền miếu và tất cả tín ngưỡng đều đã hoãn các nghi lễ công cộng đòi hỏi tập trung đông người. Sở dĩ tất cả điều trên diễn ra là bởi vì các nhà khoa học đã thực hiện các tính toán nghiên cứu và khuyến nghị đóng cửa những địa điểm tâm linh này.
Tất nhiên không phải ai cũng cảnh báo về những giấc mơ ngạo mạn và điên rồ của loài người. Ngay cả các nhà khoa học cũng đồng ý rằng chúng ta nên thực tế trong kỳ vọng của mình và chúng ta không nên xây dựng niềm tin mù quáng vào khả năng các bác sĩ sẽ cứu vớt chúng ta khỏi tai họa trong đời. Trong khi toàn nhân loại đang trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, các cá nhân vẫn phải đối mặt với tính mong manh của sự sống. Có khả năng trong một hay hai thế kỷ tới, khoa học sẽ đi đến bước kéo dài sự sống đến vô hạn. Nếu điều đó khả thi, có lẽ nó cũng chỉ xảy đến với một vài đứa trẻ tỷ phú, còn lại tất cả chúng ta đều sẽ chết vào một ngày nào đó, và chúng ta đều sẽ mất đi những người thân yêu. Tất cả chúng ta đều phải chấp nhận tính hữu hạn này.
Trong hàng thế kỷ, con người đã sử dụng tôn giáo như một lá chắn, chúng ta tin rằng mình sẽ trường tồn ở thế giới bên kia. Giờ đây, đôi khi con người chuyển sang sử dụng khoa học như một cơ chế phòng thủ thay thế và tin rằng các bác sĩ sẽ luôn cứu sống được chúng ta, và ta sẽ sống mãi mãi trong ngôi nhà của chính mình. Điều quan trọng ở đây là chúng ta cần có một cách tiếp cận cân bằng. Tin tưởng vào khoa học là cần thiết để đối phó với dịch bệnh, nhưng chúng ta vẫn nên có trách nhiệm với cái chết và cuộc đời ngắn ngủi của chính mình.
Cuộc khủng hoảng hiện tại có thể khiến nhiều cá nhân nhận thức rõ hơn về tính vô thường của cuộc sống cũng như thành tựu của loài người. Tuy nhiên, nền văn minh nhân loại hiện đại rất có thể sẽ đi theo hướng ngược lại. Khi nhắc đến tính mong manh của mình, nhân loại sẽ phản ứng lại bằng cách xây dựng hệ thống phòng thủ mạnh mẽ hơn. Khi khủng hoảng qua đi, tôi không kỳ vọng chúng ta sẽ chứng kiến một sự gia tăng đáng kể trong ngân sách dành cho ngành triết học. Nhưng tôi cá là chúng ta sẽ thấy được sự gia tăng khổng lồ trong ngân sách dành cho trường y và hệ thống y tế.
Có lẽ đây là viễn cảnh tốt đẹp nhất chúng ta có thể trông đợi. Các chính phủ dù gì cũng không phải là triết gia. Đó không phải lĩnh vực của họ. Các chính phủ thật sự nên tập trung vào việc xây dựng hệ thống y tế tốt hơn. Còn nền triết học phát triển hơn hay không tùy thuộc vào từng cá nhân. Bác sĩ không thể giải được bài toán bí ẩn về sự tồn tại nhưng họ có thể giúp kéo dài thời gian trong khi chúng ta đang vật lộn với nó. Còn việc chúng ta xử trí với thời gian đó ra sao thì đó là chuyện của chúng ta.
*Sự bất lực có điều kiện: là tình trạng khi một người hoặc động vật tin rằng bản thân thật sự bất lực trong một tình huống, kể cả khi điều đó là không đúng sự thật. Người đầu tiên thực hiện nghiên cứu này là Martin Seligman. Ông phát hiện ra rằng, khi động vật bị shock điện (nhẹ) mà chúng không thể ngăn chặn hay trốn thoát bằng bất kì cách nào thì sau đó, khi ông tạo ra một tình huống tương tự với một lối thoát thì chúng không còn thử thoát ra nữa.